Quốc Tử Giám là trường đại học của cả nước, nơi hội tụ tinh hoa, trí tuệ của dân tộc qua các kỳ thi, dù đó chỉ là một trong những hình thức tuyển sinh. Những tấm bia đá ở Văn Miếu đã lưu giữ tên tuổi của một số thành viên ưu tú của dân tộc. Phần lớn những bác sĩ đó đều là những chính trị gia kiệt xuất, những nhà ngoại giao tài ba, những sứ giả sâu sắc, những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng, những học giả… niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
- Trời lạnh, đổi bữa bằng cách làm thịt ngâm mắm siêu ngon, lạ miệng theo bí kíp của đầu bếp thông minh
- Châu Dã và Lâm Nhất “từ truyện bước ra” trong Đừng rung động vì anh
- 3 tuổi bùng nổ tiền tài, 1 tuổi đào hoa soi trúng trong tháng 3/2024
- Diễn viên Anh Tú đại náo Tam giới, hóa lão Tôn thần thông quảng đại trong Tây Du VNG: Đại Náo Tam Giới
- 3 bước quan trọng mà bạn nên thực hiện sau khi rửa mặt để bảo vệ và nuôi dưỡng làn da
Văn Miếu được xây dựng vào năm 1070 dưới thời vua Lý Thánh Tông. Năm 1076, vua Lý Nhân Tông cho lập khu Quốc Tử Giám cạnh Văn Miếu. Lúc đầu, trường là nơi chỉ dành cho con cái nhà vua và các quan chức cấp cao học tập nên có tên gọi là Quốc Tử. Người đầu tiên đến học ở đây là Hoàng tử Lý Càn Đức, con trai vua Lý Thánh Tông và Nguyễn Phi Ý Lan. Năm 1156, vua Lý Anh Tông cho sửa chữa và chỉ thờ Khổng Tử.
Năm 1253, vua Trần Thái Tông đổi Quốc Tử Giám thành Quốc Tử Giám, mở rộng và cho con em thường dân có học lực xuất sắc được học tập. Đến thời vua Trần Minh Tông, Chu Văn An được phong làm Quốc Tử Giám Tử Nghiệp (hiệu trưởng) và trực tiếp dạy dỗ các hoàng tử. Sau khi ông mất năm 1370, vua Trần Nghệ Tông đã cho thờ ông ở Văn Miếu cạnh nơi thờ Khổng Tử.
Trong suốt bốn thế kỷ (1010 – 1400) dưới thời Lý – Trần, triều đình đã xây dựng nhiều công trình hoành tráng, có nhiều giá trị văn hóa. Tuy nhiên, những tác phẩm này dần héo mòn, theo thời gian không còn lại nhiều. Thăng Long thời Lý còn nguyên vẹn trong khi chùa Diên Hựu bị thu hẹp thành một khung cảnh nhỏ với chùa Một Cột nhô lên giữa một ao sen vuông nhỏ. Tháp Báo Thiên không còn nữa. Nếu vùng đất “nghìn năm văn hiến” này không thể giữ lại được Văn Miếu thì niềm tự hào của dân tộc ta về sự giàu có về văn hóa sẽ dựa trên những bằng chứng hay hiện vật nào ngoài những tổng kết chung chung? trong vài trang sách xưa” – trích đoạn Hà Nội nửa đầu thế kỷ 20 của Nguyễn Văn Uẩn.
Xem thêm : Những vai diễn để đời của Ngọc Trinh: Lúc bị chê quá non, khi hở quá bạo
Học trò đầu tiên của Quốc Tử Giám là ai?
Theo Việt Sử Thông Giám Cương Mục: “Bình Thìn, năm Anh Vũ Chiêu Thắng, tháng 1 tháng 4… lập nhà Quốc Tử Giám; chiêu mộ trong giới công chức những người biết chữ và bổ sung vào đó”. .” Người đầu tiên đến học tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám là thái tử Lý Càn Đức, sau này xưng là vua Lý Nhân Tông.
Tấm bia tiến sĩ đầu tiên được dựng ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám vào năm nào?
Bia tiến sĩ đặt tại Khu di tích Văn Miếu Quốc Tử Giám ghi rõ tên tuổi, quê quán của những người đỗ tiến sĩ thời Lê, thời Mạc. Trên mỗi tấm bia có khắc một bài luận bằng chữ Hán, ghi lại lịch sử các khoa thi được tổ chức từ năm 1442 đến năm 1779.
Tấm bia tiến sĩ đầu tiên được dựng vào năm 1484 dưới thời vua Lê Thánh Tông, ghi lại lịch sử khoa thi năm 1442. Tấm bia cuối cùng dựng năm 1780 để thi khoa học năm 1779. Đây là tấm bia “lịch sử đá”. ” đại diện cho văn hóa giáo dục và tự hào về truyền thống hiếu học của Việt Nam.
Xem thêm : Hồ Ngọc Hà nói về chồng sắp cưới của Thanh Hằng: ‘Tôi thấy thương cho anh ấy’
Tấm bia tiến sĩ đầu tiên (1442) ghi rõ tầm quan trọng của việc đào tạo nhân tài, khuyến khích học giả: “Nhân tài là nguyên khí của quốc gia. Nước mạnh thì nước mạnh, nước yếu thì suy, nên không có bậc thánh đế, vua chúa nào không lo xây dựng nhân tài”. Một số tấm bia sau này còn nhắc lại quan niệm “nhân tài là sức sống của dân tộc”.
Bia tiến sĩ ở Văn Miếu Thăng Long được xây dựng trong khoảng thời gian gần 300 năm (từ 1484 (năm Hồng Đức thứ 15) đến năm 1780 (năm Cảnh Hưng thứ 41), có khắc văn bia ghi tên Tiến sĩ Việt Nam học. khoa thi Đình từ năm 1442 (thời Đại Bảo thứ 3) đến năm 1779 (thời Cảnh Hưng thứ 40).
Trong thời gian đó có 124 khoa thi với 30 khoa thi không có bia và 91 khoa thi có bia nên số lượng bia ở đây đầy đủ phải là 91 tấm bia. Tuy nhiên, do thay đổi lịch sử nên đến nay chỉ còn lại 82 tấm bia tiến sĩ, 9 tấm bia đã bị thất lạc.
Theo Cục Di sản văn hóa, ngày 9/3/2010, trong phiên họp toàn thể thường niên lần thứ 4 của Ủy ban Chương trình Thế giới về Ký ức châu Á – Thái Bình Dương của UNESCO (tại Ma Cao, Trung Quốc), 82 tấm bia đá của các tiến sĩ thời Lê và nhà Mạc được đặt tại đây. Văn Miếu được xem xét và ghi vào Danh sách Ký ức Thế giới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Ngày 25/5/2011, hệ thống bia tiến sĩ tại Văn Miếu đã chính thức được UNESCO đưa vào danh sách Ký ức Thế giới. Giá trị và sự độc đáo của 82 tấm bia tiến sĩ chính là những bài luận (chữ ký) bằng chữ Hán khắc trên tấm bia chứa đựng rất nhiều thông tin lịch sử. Đây là hệ thống bia tiến sĩ duy nhất trên thế giới có chữ khắc (tấm bia) không chỉ ghi tên tiến sĩ mà còn ghi lại những triết lý của các triều đại về giáo dục, đào tạo và sử dụng nhân tài.
Ngoài ý nghĩa văn hóa, giáo dục, mỗi tấm bia tiến sĩ còn chứa đựng những thông tin về các khoa thi của Hội như tên giám khảo, giám khảo, ngày thi, ngày đăng tên những người đã thi đỗ. .Cho đến nay, hầu hết hoa văn, chữ khắc trên mỗi tấm bia đá vẫn còn rõ ràng, dễ đọc.
Văn Miếu – Quốc Tử Giám tọa lạc tại quận Đống Đa, Hà Nội, ngay giữa 4 tuyến đường chính gồm Nguyễn Thái Học, Tôn Đức Thắng, Văn Miếu và Quốc Tử Giám. Du lịch Hà Nội với hàng nghìn năm văn hiến, đây chắc chắn là địa điểm bạn nên ghé thăm.
Nguồn: https://gocnhineva.com
Danh mục: Tin Tức
Trả lời