Lý Ông Trọng giúp nhà Tần đánh giặc Hung Nô
- Hộ chiếu nước nào đi được nhiều nhất thế giới?
- Loại lá ‘xưa như trái đất’ bỗng dưng thành đặc sản, bán chạy tại chợ chung cư với giá 90.000 đồng/kg
- 7 ngày cuối cùng tháng 3 âm: 3 tuổi Tiền – Tài
- Khánh Thi hé lộ hình ảnh ngồi xe lăn sau phẫu thuật, cảm thấy tổn thương vì bị xúc phạm
- 2 tuổi trắng tay lập cơ đồ, 2 tuổi phất nhanh như gió
Lý Ông Trọng tên thật là Lý Thần, một nhân vật huyền thoại sống vào cuối thời Hùng Đức Vương, đầu thời An Dương Vương, quê ở làng Chèm, Từ Liêm, Hà Nội. Đến thời vua Hùng thứ 18, ông Trọng giữ chức vụ nhỏ ở huyện ấp. Thế hệ sau nói rằng ông cao 2 feet 3 feet. Với bản tính ngay thẳng, trung thành và giàu tình thương, anh từng chứng kiến một tên lính huyện độc ác đánh đập dân làng một cách dã man. Anh ta tức giận đánh chết người lính đó và bị tòa án kết án tử hình. Nhưng vua thấy ông là người đức độ và khỏe mạnh nên không nỡ giết ông. Sau đó, anh nghỉ việc và đi học xa.
Thời Thục An Dương Vương, ông là vị tướng giỏi giúp vua và được cử đi sứ sang nước Tần.
Lúc bấy giờ nhà Tần thường có người Hung Nô tấn công phương Bắc. Dù Tần Thủy Hoàng đã xây dựng Vạn Lý Trường Thành nhưng vẫn không có hòa bình. Vì vị tướng tài giỏi của nước Âu Lạc là Lý Ông Trọng đến sứ thần, vua Tấn đã mời ông đến giúp Tấn diệt giặc Hun và phong ông làm Vạn Tín Hầu. Ông Trọng dẫn quân bảo vệ đất Lâm Thao (vùng Cam Túc, Trung Quốc ngày nay), quân Hung Nô có đến bao nhiêu cũng bị đè bẹp. Người Hung Nô khiếp sợ và từ đó không dám xâm phạm biên giới Tần nữa. Vua Tần rất quý trọng ông, phong tước cao, ban thưởng hậu hĩnh, gả công chúa cho Lý Ông Trọng, muốn giữ ông ở lại Tần lâu dài. Một thời gian sau, Lý Ông Trọng nhớ quê hương và xin vua Tần cho về quê nghỉ ngơi.
Khi biết Lý Ông Trọng đã về nước, quân Hung Nô tiến đánh Tần. Vua Tần sai sứ sang Âu Lạc mời ông Trọng. Ông Trọng không muốn đi nên vua Thục nói ông đã qua đời. Vua Tần bất đắc dĩ phải đúc tượng Lý Ông Trọng bằng đồng khổng lồ (rỗng bên trong, chứa được hàng chục người, có máy rung để cử động tay chân như thật) và đặt ở cổng Kim Mã, kinh đô Hàm Dương. Người Hung Nô tưởng ông đi Tần nên không dám xâm chiếm nước này. Từ đó người miền Bắc thường gọi tượng lớn là “ông Trọng”.
Tử Cấm Thành là công trình của người Việt
Xem thêm : Xem giờ tốt xấu ngày 27/11/2023 chuẩn nhất, xem lịch âm, Rằm tháng 10 làm gì để gặp may mắn
Tử Cấm Thành Bắc Kinh ngày nay đã trở thành biểu tượng văn hóa để người Trung Quốc tự hào về nhân loại. Ít người biết rằng kiến trúc sư tổng thể của Tử Cấm Thành là người Việt Nam.
Đó là ông Nguyễn An, sinh vào cuối đời nhà Trần. Theo Kiến Văn Tiêu Lục của Lê Quý Đôn thì Nguyễn Ân vốn là người Hà Đông ngày nay. Ngay từ nhỏ ông đã nổi tiếng là thần đồng, giỏi tính toán và có năng khiếu đặc biệt về kiến trúc. Vì vậy, khi mới 16 tuổi, Nguyễn An đã có mặt trong đoàn thợ xây dựng các công trình cung điện thời Trần.
Năm 1406, nhà Minh đem quân tấn công nhà Hồ và bắt được hai cha con Hồ Quý Ly rồi đưa về Trung Quốc. Năm 1407, vua Minh ban chiếu cho các tướng quân nhà Minh ở nước ta bắt những người có học thức cao, thợ khéo, thanh niên cường tráng để đưa về Trung Quốc phục vụ nước nhà. Nguyễn An nằm trong số những người bị bắt.
Sang Trung Quốc, Nguyễn Ân bị bắt vào đội thái giám. Vào thời điểm này, nhà Minh đang xây dựng Bắc Kinh làm thủ đô. Nghe tin Nguyễn Ân có tài kiến trúc và tính chính trực, vua Minh giao cho ông phụ trách việc xây dựng Tử Cấm Thành. Các quan ở Bộ Công không bị thuyết phục nhưng khi thấy sự tính toán rõ ràng của Nguyễn Ân và tư tưởng, bàn tay của ông thành hình, họ vui vẻ làm theo.
Dưới sự chỉ đạo của Nguyễn Ân, Tử Cấm Thành của Bắc Kinh được hoàn thành với công trình đồ sộ gồm 800 cung điện và 8.886 phòng trên diện tích 720.000 m2. Theo phát biểu của giáo sư Trần Ngọc Thêm trên báo Sài Gòn Giải Phóng, công trình này mang đậm dấu ấn kiến trúc Việt Nam. Đó là nguyên tắc “trước triều, sau” nghĩa là trước có điện, sau có chợ. Trong khi các thành quách của Trung Quốc trước đây có hình vuông thì Tử Cấm Thành có hình chữ nhật. Đặc điểm nổi bật nhất là Tử Cấm Thành có 3 lớp trong khi các thành quách trước đây chỉ có 1 hoặc 2 lớp. Theo Giáo sư Thêm, đây là biểu hiện của tư duy coi trọng số lẻ của người Việt Nam và cũng giống với thành Cổ Loa nước ta.
Những đóng góp của Nguyễn Ân trong việc tổ chức xây dựng Tử Cấm Thành vẫn còn được ghi chép rõ ràng trong sử sách Trung Quốc cổ đại như Hoàng Minh Thông Ký, Anh Tông Chính thống Thục Lục.
Người sáng lập pháo binh ở Trung Quốc
Người Trung Quốc từ lâu đã được mệnh danh là cha đẻ của thuốc súng. Nhưng ít người biết rằng chính người Việt đã dạy người Trung Quốc cách chế tạo súng pháo. Người thầy đó không ai khác chính là Hồ Nguyên Trung. Ông là con trai cả của Hồ Quý Ly, có tài đúc súng và pháo đặc biệt. Sau khi nhà Hồ bị quân Minh tiêu diệt, cha con ông cùng các quan lại bị bắt đưa về Trung Quốc.
Xem thêm : Kim Ji Won thất nghiệp hậu kết hôn với Kim Soo Hyun
Ở Trung Quốc, nhà Minh biết Trung có tài chế tạo súng cơ khí nên trưng dụng ông, từ đó đất nước tiến một bước lớn trên con đường sử dụng thuốc nổ trong chiến tranh. Theo Văn Đại Loại Ngự của Lê Quý Đôn, trong lịch sử nhà Minh có chép: “Tung khéo chế tạo súng ống, tạo ra các thần khí cho triều đình. Xưa nay cúng vũ khí đều phải tế Trung”. Trong sách Thông Kỵ còn có viết: “Lúc đầu, Quốc Triệu (ám chỉ thời nhà Minh) chỉ có 5 trại quân là Trung, Cựu, Tả, Hữu, Hậu. Vĩnh Lạc (1403-1424) cầm 3.000 quân Hồ dưới cờ rồng, lập ba ngàn trại, sau khi Nam bị trừng phạt, ông học được phép thuật và lập trại ma thuật”.
Giáo sư Trần Quốc Vượng khi nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cũng khẳng định trong Sử ký nhà Minh có ghi: “Thời vua Thành Tổ nhà Minh (1403-1424), khi xâm lược nước Giao, ông chỉ học được cách đúc các bộ phận cơ khí vào đại bác, lúc đó mới tạo ra đội súng thần kỳ”. Như vậy, các tài liệu lịch sử của ta cũng như của Trung Quốc đều xác nhận rõ ràng rằng chỉ từ khi Hồ Nguyên Trung ra đời thì Trại Cơ Thần, đội pháo binh đầu tiên của quân đội Trung Quốc và cũng là đội pháo binh đầu tiên của quân đội Trung Quốc mới xuất hiện. pháo binh đầu tiên của nhân loại. Rõ ràng là tổ tiên của chúng ta đã đi trước người Trung Quốc trong ngành sản xuất pháo binh.
Trạng nguyên thời nhà Đường
Trong lịch sử quan hệ ngoại giao Việt Nam và Trung Quốc thời phong kiến, có nhiều sứ thần Việt Nam vì giỏi ứng xử nên được hoàng đế Trung Quốc phong tặng danh hiệu Trạng Nguyên. Tuy nhiên, đó chỉ là một hình thức danh hiệu danh dự. Nhưng từ thế kỷ thứ 8, khi nước ta còn là thuộc địa của nhà Đường, người Việt đã tỏ ra thông minh không kém người Trung Quốc.
Năm 784, Khương Công Phụ, một thường dân quê Yên Định – Thanh Hóa (huyện Nhật Nam thời nhà Đường) đến Trường An thi và đạt danh hiệu Tràng Nguyên, dẫn đầu hàng ngàn học giả Trung Quốc. Quốc.
Theo sách Chuyện thi cử và nghề nghiệp của cựu học sinh, Khương Công Phủ sinh ra trong một gia đình bán thuốc đông y. Ngay từ nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh nên được cha mẹ gửi đi học với một thầy giáo người Trung Quốc là một nhà nho học giỏi nhưng chán môi trường học đường và trốn sang nước ta sống ẩn dật. Nhờ được thầy dạy giỏi, tài năng của Công Phú ngày càng phát triển.
Trong khoa thi huyện, vua Đường chỉ cho 8 học sinh An Nam đến Trường An thi, nhưng Công Phụ đều đậu tất cả các bài thi và luôn đứng đầu về số học sinh tham gia thi. Tại khoa thi ở Trường An, ông thi đỗ rồi làm bác sĩ rồi làm tể tướng thời vua Túc Tông.
Đánh giá Công Phủ, các học giả Trung Quốc sau này vẫn còn nhiều ngưỡng mộ. Học giả La Sĩ Bang nhận xét: “Nhà Đường dựa vào văn thơ để chiều chuộng quan lại. Người An Nam muốn làm quan phải đi theo con đường đó. Công Phụ thi đỗ làm quan đến chức vị cao quý như Tổ, nên thơ văn của ông chắc hẳn rất sâu sắc và xuất sắc… Chỉ trong Toàn Đường Vân, tập 446, có ghi lại hai câu thơ: Mây trắng soi sáng biển xuân và đối cực đạo gián sách. Qua hai chương thiên văn đó, chúng ta có thể thấy đại khái cách viết và kiến thức của các nhà văn tài năng.
Nguồn: https://gocnhineva.com
Danh mục: Tin Tức
Trả lời