Lý Chiêu Hoàng là con gái thứ hai của vua Lý Huệ Tông và hoàng hậu Trần Thị Dung. Bà cũng là vị hoàng đế thứ 9 và cuối cùng của nhà Lý (1010 – 1225). Ngay từ khi còn nhỏ, Lý Chiêu Hoàng đã bị cuốn vào cuộc tranh giành vương quyền giữa hai nhà Lý và nhà Trần, để rồi suốt cuộc đời bà phải chịu biết bao gian khổ.
- Nam diễn viên Việt bị tai nạn hỏng hết mặt, phải phẫu thuật 20 lần giờ ra sao?
- Cây bồ công anh, cây thuốc ‘kháng sinh thực vật’, có tác dụng chữa bệnh tuyệt vời ra sao?
- Lệ Quyên và những lần biến đồ hiệu thành đồ chợ vì cách mix match khó hiểu
- Vừa thiếu tiền bạc lại vừa cô đơn
- Địch Lệ Nhiệt Ba tái hợp bạn trai đẹp đôi nhất màn ảnh, có làm Dương Tử e sợ?
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Lý Chiêu Hoàng lên ngôi vào tháng 10 năm 1224, khi mới 6 tuổi, trị vì là Thiên Chương Hữu Đạo. Vì còn quá trẻ nên triều đình do Thái hậu Trần Thị Dung cai quản. Khi đó, quan chỉ huy phủ Trần Thủ Độ (em họ của Thái hậu Trần Thị Dung) – người có quyền lực lớn nhất trong triều lúc bấy giờ – đã sắp xếp đưa một người cháu tên là Trần Cảnh, 8 tuổi, vào cung. cung điện. Phủ làm Tể tướng, chịu trách nhiệm phục vụ Lý Chiêu Hoàng.
Có bạn cùng chơi, Lý Chiêu Hoàng rất thích Trấn Cảnh nên hay trêu chọc nhau. Đại Việt sử ký toàn thư ghi rằng: “Một hôm, Cảnh lúc đó mới 8 tuổi, phải lo gánh nước giặt giũ, người hầu vào trong. Chiêu Hoàng nhìn thấy liền thích thú. Lần nào chơi ở nhà cũng thích. Đêm tối, anh gọi Cảnh đến chơi cùng, thấy Cánh ở chỗ tối, anh đến trêu chọc, hoặc túm tóc, hoặc đứng trong bóng tối.
Một hôm, Cảnh đang xách nước, Chiêu Hoàng rửa mặt, dùng tay vốc nước tạt khắp mặt Cảnh rồi cười trêu chọc. Khi Cảnh mang khăn trầu đến, anh ta cầm lấy khăn ném cho Cảnh…”
Thấy hai người có vẻ vướng mắc, Trần Thủ Độ bàn với em họ là Thái hậu Trần Thị Dung để thực hiện “đảo chính hoàng gia” bằng hành động táo bạo đưa cả gia đình, họ hàng vào cấm cung.
Sau đó, Trần Thủ Độ ra lệnh cho quân lính đóng chặt các cổng thành và cung điện, cử người canh gác nghiêm ngặt. Các quan xin vào thăm vua nhưng không được chấp thuận.
Khi hoàng cung bị phong tỏa, triều đình nhà Lý không ai phản ứng gì vì nhà Trần giữ Hoàng hậu và Thái hậu như thể có con tin trong tay, ai dám hành động liều lĩnh. Tiếp đó, Trần Thủ Độ lập tức tuyên bố: “Hoàng thượng đã kết hôn.” Thế là Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh trở thành vợ chồng.
Vốn dĩ những câu trích dẫn trên chỉ là những trò đùa ngây thơ của trẻ con nhưng qua con mắt của những kẻ có mưu đồ xấu xa, chúng lại trở thành số phận đẩy con người phải thay đổi quan điểm.
Và rồi chuyện gì cũng phải xảy ra, vào mùa đông Ất Dậu năm đó, chiếu chỉ nhường ngôi cho chồng được ban ra. Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có đoạn viết: “Khốn thay, ta là công chúa, tài đức thiếu sót, không có ai giúp đỡ, bọn cướp nổi lên như ong, làm sao giữ được ngai vàng nặng nề”. ? Tôi thức dậy sớm vào buổi sáng.” Thức khuya sợ không chịu nổi, cứ nghĩ đến việc tìm một quân tử tốt bụng để giúp đỡ chính trị, ngày đêm cầu xin, sẽ đến cực điểm…
Bây giờ ngẫm đi ngẫm lại, chỉ có Trần Cảnh là người có tài viết văn không chê vào đâu được, đúng là quân tử, oai phong và đoan trang, có tố chất của một vị thần văn võ. còn lâu thì phải nhường ngôi để làm vui lòng trời và làm ta thất vọng.
Tôi hy vọng rằng tất cả chúng ta có thể đồng lòng với nhau, giúp đỡ đất nước và tận hưởng phước lành hòa bình. Vậy nên hãy thông báo với thế giới, cho mọi người biết.”
Ngày 11 tháng 12 âm lịch Mậu Đan, trên giường thành, Chiêu Hoàng cởi áo bào và khuyên Trấn Cảnh lên ngôi.
Xem thêm : Song Joong Ki tiếp tục có hành động hơn thua với Song Hye Kyo, liệu có chiến thắng được vợ cũ?
Cuộc sống bất hạnh
Ý nghĩ nhường ngôi cho chồng và trở thành Hoàng hậu Chiêu Thành đã mở ra một trang hạnh phúc mới cho cô công chúa nhỏ trong cung cấm. Nhưng đó… chỉ là khởi đầu cho số phận bất hạnh.
Năm 14 tuổi, Chiêu Thành sinh được một con trai với Trần Cảnh, đặt tên là Trần Trình nhưng qua đời ngay sau đó. Bốn năm sau, dưới áp lực của Trần Thủ Độ lúc đó đang là Chưởng cơ, sợ nhà vua không có người thừa kế nên buộc nhà vua phải lấy bà Thuận Thiên làm vợ. Tiếc thay, Thuận Thiên đã là vợ của Trần Liễu (anh trai vua Trần Thái Tông) và đang mang thai được 3 tháng.
Sự việc đó khiến nhà vua muốn rời cung đi lên núi Yên Tử ở tại nhà Phù Vân, trong khi Trần Liễu nổi loạn. Tuy nhiên, sau đó cuộc nổi loạn bị dập tắt, nhà vua trở về kinh đô và mọi chuyện lại bình thường như trước. Người ôm nỗi đau duy nhất chính là Chiêu Thành.
Nhà Trần tước bỏ chức hoàng hậu và phong bà làm công chúa. 20 năm dài, Chiêu Thành lần thứ hai trở thành công chúa, ôm nỗi buồn và sự cô đơn trong cấm cung.
Tưởng chừng như cô sẽ phải sống chung với sự ghẻ lạnh, tủi nhục đó đến hết cuộc đời nhưng số phận lại đưa Chiêu Thành rẽ sang một ngã rẽ khác.
Năm Mậu Ngọ 1258, vua Trần Thái Tông chiếu sắc gả bà cho Lê Tấn (còn gọi là Lê Phú Trần). Ông là vị tướng có công lớn trong cuộc chiến chống quân Nguyên xâm lược lần thứ nhất. Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có đoạn vua nói: “Nếu không có Khánh thì không có ngày hôm nay. Khánh hãy cố gắng tận hưởng hạnh phúc sau này”.
Thế nên, đến thời Chiêu Thành, từ công chúa lên ngôi, bà đã nhường ngôi cho chồng, trở thành hoàng hậu rồi bị phế truất làm công chúa, và giờ đây, bà đã hạ giá để cưới một vị tướng nổi tiếng làm người hầu. . Như sử gia Ngô Sĩ Liên đã nói: “Ở đây lại thấy sự vô nghĩa của nhà Trần và đạo đức vợ chồng của vua ta”.
Đồng ý kết hôn với Lê Phú Trần khi đã 40 tuổi, Chiêu Thành vẫn trẻ trung, hấp dẫn. Cưới nhau một năm, bà sinh một con trai tên Lê Tông (cũng đặt tên là Lê Phú Hiển, sau đổi tên là Trần Bình Trọng). Sau đó sinh được một người con gái tên là Minh Khuê, sau được phong là Ung Thủy công chúa.
Phải nói đi nói lại, dù muộn màng nhưng dường như hạnh phúc đã mỉm cười với Chiêu Thành. Dù có mất đi bao nhiêu lần cuộc đời, cô vẫn có một nơi để thuộc về và có một cuộc sống tốt đẹp.
Năm Mậu Dần 1278, bà về quê Cổ Pháp dự lễ giỗ và viên tịch tại đây. Tương truyền rằng lúc đó bà đã 60 tuổi nhưng tóc vẫn đen tuyền, môi đỏ như son và má vẫn ửng hồng hoa đào.
Người ta lập miếu thờ Bà ở bìa rừng Bằng, phía Tây Thọ Lang Thiên Đức, chùa gọi là Long Miếu Điện, thường gọi là miếu Rồng. Bà chỉ được thờ riêng trong một ngôi chùa nhỏ, không được thờ chung ở đền Lý Bát Đế vì mắc “tội nặng”. Sau khi lấy chồng và nhường ngôi cho chồng, bà bị cáo buộc “tội nặng”, bị coi là bất hiếu vì đã tiêu diệt nhà Lý, nhường ngôi vào tay người khác.
Dân gian còn có truyền thuyết: “Tổ tiên truyền tám lá, lá sinh âm”. Câu này có nghĩa là 8 chiếc lá có thể truyền đi, lá rụng và năng lượng tiêu cực sinh ra. Nghĩa là nhà Lý tồn tại được 8 đời nhưng mất ngôi vì có một nữ vua.
Trong sử sách, từ góc độ phong kiến, góc nhìn của bà lại càng nặng nề hơn. Sử ký Việt Nam Tiên Đình viết: “…Bà là âm ở thế dương, hoàn toàn trái ngược với lẽ thường,…bà sinh ra dâm dục, lấy chồng không xứng đôi…”. Việc bà lấy Lê Phú Trân cũng bị coi là một tội ác: “Chiêu Thành rất thích cuộc hôn nhân đó nhưng không bằng một thường dân còn liêm khiết,… hoàng hậu mà cưới một người hầu là Phú Trần. Nếu người hầu lấy hoàng hậu làm vợ, làm mẹ, làm con, làm chị, làm vợ, làm chồng, làm vua, làm tôi tớ thì không bằng làm thú vật.”
Xem thêm : Ngâm loại củ này với mật ong là ‘bài thuốc trường thọ’, người Nhật rất hay dùng
Mọi lời than phiền đều đổ lên đôi vai gầy gò, gầy gò của người phụ nữ nhỏ bé. Nhưng hỡi ôi, là phụ nữ, vâng lời cấp trên cũng là điều nên làm. Từ năm 7 tuổi, ông đã phải ngồi trên ngai vàng lung lay, thối nát đến tận xương tủy, không có hiền nhân hướng dẫn, không có trợ thủ trung thành, sự sa đọa của Lý Cao Tông đã khiến chính ông bị hủy hoại, làm tan nát trái tim ông. Mọi người lạnh lùng và biến mất.
Chuyện kể rằng, khi mới đắc thiên, vua Lý Thái Tông từ xa về Cổ Pháp viếng chùa hương Phù Đổng. Một vị thần viết bài thơ trên cột chùa:
“Một bát nước công đức Phật”
Tùy số mệnh mà thế giới được tạo ra (Theo số mệnh thì thế giới được sinh ra)
Ánh sáng tỏa sáng rực rỡ (hai ngọn đuốc chiếu sáng)
Ảnh báo hàng ngày (Mặt trời canh núi, bóng mất)”.
Mãi đến khi nhà Lý chấm dứt, chúng ta mới biết bài thơ đó là có thật. Tính từ đời vua Lý Huệ Tông trở đi Lý Thái Tổ có tám đời. Sử gia Ngô Sĩ Liên bàn rằng, Huệ Tông tên Sâm – nghĩa là mặt trời canh núi không có bóng, nhà Lý được nước là do trời, mất cũng là do trời.
Cuộc đời Chiêu Hoàng đã phải chịu nhiều cay đắng, tủi nhục. Sau khi nhường ngôi cho chồng, bà lui về làm hoàng hậu, bị giáng làm công chúa, chồng lấy em gái bà, chán nản đến mức muốn đi tu thì chồng cũ đến. Bị thuyết phục cưới một người hầu như một phần thưởng.
Có nỗi đau nào đau đớn hơn thế không? Cho đến nay người ta vẫn lưu truyền bài dân ca này như một lời quở trách vua Trần:
“Hãy trách kẻ vô ơn
Chơi hoa rồi bẻ cành bán!”
Không biết tình cảm của Trần Cảnh dành cho Chiêu Hoàng là thế nào, nhưng hai lần “bất trung” đó không chỉ khiến cô chết lặng mà còn bị thế hệ sau “chê”, có thể nói là trường hợp hiếm gặp trong lịch sử. Tuy nhiên, việc gả vợ cũ cho tôi cũng là định mệnh, lần lượt đó đã giúp cô tìm được hạnh phúc cho nửa đời sau.
Hình ảnh Lý Chiêu Hoàng, ban đầu là một nàng công chúa với những thăng trầm trong số phận, sau đó là vị hoàng hậu đầu tiên của Việt Nam đã để lại nỗi nhớ sâu sắc cho hậu thế. Ở đó, thế hệ sau soi qua lăng kính lịch sử để hiểu rõ hơn về số phận của một nàng công chúa.
Bà là hoàng hậu duy nhất trong hơn 1.000 năm của chế độ phong kiến Việt Nam, đồng thời cũng là người phụ nữ duy nhất trong lịch sử được phong làm Thái tử và giữ ngôi Thái tử trong thời gian ngắn nhất (chưa đầy 1 ngày). Chiêu Hoàng là vị vua có thời gian trị vì ngắn nhất trong các vị vua nhà Lý. Bà là người duy nhất trong lịch sử hai lần làm công chúa và là công chúa của hai triều đại khác nhau. Đặc biệt hơn, bà là người duy nhất trong lịch sử từng là vua của một triều đại và sau đó là hoàng hậu của một triều đại khác. Suy cho cùng, Chiêu Hoàng và Trần Cảnh là cặp đôi duy nhất trong lịch sử đều cùng là vua.
Những biến động lịch sử có thể đã đẩy Chiêu Hoàng đến nhiều ngã rẽ khác nhau, nhưng khi nhắc đến bà, hậu thế sẽ nhớ ngay đến bà là người đã đặt dấu chấm hết cho triều Lý, từ Lý Thái Tổ (1010) đến Chiêu Hoàng sống năm Ất Dậu. (1225) tổng cộng là 216 năm.
Nguồn: https://gocnhineva.com
Danh mục: Tin Tức
Trả lời