Tóm tắt triều Nguyễn
- Ba phần phim Hồ Yêu Tiểu Hồng Nương xác nhận dàn cast chính
- 1 tuổi ăn lộc Tổ Tiên hốt Vàng, hốt Bạc
- Duy Mạnh phản hồi về thông tin Facebook ‘bay màu’, nghi ngờ có người hãm hại
- Ghé thăm Hàn Quốc mùa đẹp nhất trong năm: Khung cảnh lãng mạn như chỉ có trong phim
- Tình cũ Ngô Diệp Phàm phản pháo khi bị tố lừa đảo 700 triệu đồng
Triều Nguyễn là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Triều Nguyễn được thành lập sau khi Nguyễn Ánh (Gia Long) lên ngôi năm 1802 và kết thúc khi Bảo Đại thoái vị năm 1945, tổng cộng là 143 năm. Triều Nguyễn là triều đại đánh dấu nhiều thăng trầm trong lịch sử Việt Nam, đặc biệt là cuộc xâm lược của thực dân Pháp vào giữa thế kỷ 19.
Bạn đang xem: Vị vua nào ăn mặc lố lăng, bị người đời mỉa mai là ‘tổ sư nghề nịnh nọt’ trong sử Việt?
Từ năm 1802 đến 1884, các vua Nguyễn nắm toàn quyền cai trị đất nước, trải qua 4 đời vua: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Gia Long và sau này là Minh Mạng đã nỗ lực xây dựng nước Việt Nam trên nền tảng Nho giáo. Trong thời kỳ này, nội chính trong nước bất ổn, triều Nguyễn ít được lòng dân, chỉ trong vòng 60 năm đã có hơn 400 cuộc nổi dậy của nhân dân. Gia Long tăng thuế và cưỡng bức lao động quá nặng nề khiến người dân bất bình. Dưới thời vua Minh Mạng xảy ra nhiều cuộc chiến tranh giành lãnh thổ ở Campuchia khiến ngân khố cạn kiệt. Đến thời Tự Đức, mọi mặt đất đai đều bị tàn phá. Mực nước kém. Từ những năm 1850, một nhóm trí thức Việt Nam, điển hình là Nguyễn Trường Tộ, nhận ra sự trì trệ của đất nước và xin học hỏi phương Tây để phát triển công – thương mại, cải cách quân sự – đối ngoại. được giao, nhưng họ chỉ là thiểu số, còn đa số quan lại, trí thức triều Nguyễn chưa nhận thức được sự cần thiết của cải cách, mở cửa đất nước nên Tự Đức chưa quyết tâm thực hiện những đề xuất này. Đại Nam dần trở nên trì trệ, lạc hậu và đứng trước nguy cơ bị thực dân châu Âu xâm lược.
Từ năm 1884–1945, Đại Nam bị Pháp xâm chiếm và đô hộ, bắt đầu từ khi quân Pháp tấn công Đà Nẵng và kết thúc sau khi Hoàng đế Bảo Đại thoái vị. Tháng 8 năm 1858, Hải quân Pháp đổ bộ tấn công cảng Đà Nẵng rồi rút lui đánh chiếm Gia Định. Tháng 6 năm 1862, vua Tự Đức ký hiệp ước nhượng ba tỉnh miền đông cho Pháp. Năm 1867, Pháp chiếm 3 tỉnh tiếp theo phía Tây để hình thành lãnh thổ thuộc địa Nam Kỳ (Cochinchina). Sau khi củng cố được vị thế vững chắc ở Nam Kỳ, từ năm 1873 đến năm 1886, Pháp xâm chiếm phần còn lại của Việt Nam thông qua các cuộc chiến tranh ở Bắc Kỳ. Đến năm 1884, nhà Nguyễn chính thức công nhận quyền cai trị của Pháp ở Việt Nam. Pháp có thực quyền cai trị, các vua Nguyễn tuy vẫn nắm giữ ngai vàng nhưng cũng chỉ là bù nhìn. Quân Pháp sau này có thể tùy tiện phế truất vua Nguyễn. Thời kỳ này kết thúc khi Nhật lật đổ Pháp nhưng thua quân Đồng minh do Mỹ lãnh đạo trong Thế chiến 2, sau đó Bảo Đại tuyên bố thoái vị ngay sau đó vào ngày 30/8/1945 sau khi Nhật Bản đầu hàng quân đội đồng minh. .
Triều Nguyễn trải qua 13 triều đại, gồm: Gia Long (1802-1820), Minh Mạng (1820-1841), Triệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1847-1883), Đức Đức (1883), Hiệp Hòa ( 1883), Kiến Phúc (1883-1884), Hàm Nghi (1884-1885), Đồng Khánh (1885-1889), Thành Thái (1889-1907), Duy Tân (1907-1916), Khải Định (1916 -1925) , Bảo Đại (1926-1945).
Xem thêm : Làm theo cách này, để bao lâu bánh vẫn mềm ngon như mới
Vị vua nào của triều Nguyễn bị người đời chế giễu là “chuyên gia xu nịnh”?
Vua Khải Định (1885 – 1925) là vị vua thứ 12 của triều đình phong kiến nhà Nguyễn. Giống như cha mình Đồng Khánh, ông được biết đến như một vị vua bù nhìn, một tay sai đắc lực của Pháp trong kế hoạch cai trị Đông Dương. Cuộc đời làm vua của Khải Định được sử sách ghi lại với tài giải trí lộng lẫy và nổi tiếng là nịnh nọt kẻ thù nên trong nhân dân thường có câu ca dao châm biếm “Lời đồn Khải Định nịnh Tây/Nghĩa ta sẽ lấy ông chủ này”. “
Vua Khải Định tên khai sinh là Nguyễn Phúc Bửu Đạo. Ông là con trai cả của vua Đồng Khánh, mẹ ông là Dương Thị Thục. Ông sinh ngày 8 tháng 10 năm 1885 tại kinh đô Huế. Việc lên ngôi của Bửu Đạo không hoàn toàn suôn sẻ. Sau khi tố cáo vua Duy Tân, người Pháp muốn bãi bỏ chế độ quân chủ ở Việt Nam nhưng các cận thần, đặc biệt là Thượng thư Nguyễn Hữu Bài không chịu nên Pháp phải tuân theo. Ngày 18 tháng 5 năm 1916, Bửu Đạo lên ngôi, lấy hiệu là Khải Định.
Theo sách Kinh thành Huế và triều Nguyễn có viết: “Trước khi lên ngôi, Khải Định nổi tiếng là người nghiện cờ bạc, thường thua bạc, có khi phải bán hết của cải và người hầu. Khi lên ngôi, ông bị xét xử”. Là một vị vua chỉ thích vui chơi, Khải Định thích trang điểm và mặc những bộ quần áo lòe loẹt, sặc sỡ thay vì bộ hoàng bào màu vàng như các vị vua trước, ông tự sáng tạo ra nó, ông đã tạo ra những bộ quần áo mới cho mình và cho các cận vệ của mình. Bởi vì Ông không tuân theo trang phục hoàng gia truyền thống của các vị vua, ông thường bị báo chí thời đó chỉ trích, ông còn xây dựng nhiều công trình sang trọng và nổi tiếng nhất là lăng mộ riêng của ông – bị nhiều người chỉ trích vì lối kiến trúc lai tạp.
Tháng 5 năm 1922, vua Khải Định sang Pháp dự Hội chợ thuộc địa ở Marseille. Đây là lần đầu tiên một vị vua triều Nguyễn có chuyến công du nước ngoài. Chuyến đi này đã châm ngòi cho nhiều hoạt động của người dân Việt Nam yêu nước phản đối Người. Tại Pháp, trên báo Nghèo đói, nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc đăng một loạt bài chế giễu Khải Định, trong đó có truyện ngắn “Vi Hanh” và còn viết vở kịch Rồng tre, trình diễn ở ngoại ô Paris. Nhà cách mạng Phan Chu Trinh gửi Thất Thính – thư dài tố Khải Định 7 tội danh. Tháng 9 năm 1924, từ Pháp trở về, Khải Định còn lo tổ chức lễ giỗ bốn tuần hoành tráng và tốn kém, buộc người dân khắp nơi phải gửi quà chúc mừng. Sau lễ mừng thọ, ngân sách Nam triều cạn kiệt, Khải Định tăng thuế đất lên 30% khiến phẫn nộ của nhân dân khắp nơi dâng cao.
Nói về những người vợ của vua Khải Định, vua Bảo Đại viết trong hồi ký Le Dragon d’Annam: “Ngày 15/5/1922, 12 người vợ của vua Khải Định, theo thứ tự lớn nhỏ, xếp hàng quỳ xuống nhìn thấy. tiễn nhà vua lên đường sang Pháp, mang theo Thái tử Vĩnh Thụy đi du học, gồm có: Bà Giai thứ hai Hữu phi, bà An Phi Hồ Thị Chi, hạng ba Diệu Tấn, hạng bốn Dư Tấn, hạng năm Điềm Tân, Kế Du, Tấn Diễm, Tiếp Tào, Tiếp Quý Trang… Như vậy, trong số 12 người phụ nữ kể trên, có 9 người phụ nữ danh tính rõ ràng, 3 người phụ nữ còn lại vẫn chưa biết họ là ai.
Vua Khải Định tuy có 12 vợ nhưng chỉ có một người con là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy (1913 – 1997), tức hoàng đế Bảo Đại, mẹ là Nhất Giai Hậu Phi Hoàng Thị Cúc.
Kiến Trung Lâu là cung điện mới nhất được xây dựng trong kinh thành Huế, vào năm 1923 dưới thời vua Khải Định (1916-1925). Theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An, ban đầu tại vị trí đó, trước thời Khải Định, xuất hiện hai công trình khác là Minh Viễn lầu (nơi vua chiêm ngưỡng phong cảnh và giải nhiệt) và Du Cửu lầu. Đứng vững trên nền móng cao gần 3m, điện Kiến Trung là một công trình hai tầng đồ sộ, nguy nga với lối trang trí nội ngoại thất tinh xảo. Trước đây nơi ở và làm việc của các vua triều Nguyễn là điện Càn Thành và điện Cần Chánh. Sau khi được xây dựng, điện Kiến Trung trở thành nơi ở, ngủ và làm việc của vua Khải Định. Thời Bảo Đại, điện Kiến Trung cũng là nơi sinh hoạt của toàn bộ gia đình nhà vua, trong đó có Nam Phương hoàng hậu, hai hoàng tử và ba hoàng hậu.
Nguồn: https://gocnhineva.com
Danh mục: Tin Tức
Trả lời