Vua Minh Mạng của triều Nguyễn có tổng cộng 43 người vợ, những người vợ này sinh được 142 người con trong đó có 78 hoàng tử và 64 công chúa. Hậu thế lý giải nhà vua “toàn năng lực” nhờ bài thuốc “Minh Mạng thang”
- Từ 15/11 đến 25/11, 3 tuổi được Thần Tài chỉ điểm, đổi vận giàu to
- Cách kiểm tra nợ xấu bằng Chứng minh nhân dân/Căn cước công dân mới nhất
- La Vân Hi gặp hậu quả khi rời xa Bạch Lộc, tưởng hơn mà hóa ra là ‘hơn thua’
- Nam diễn viên Việt nổi tiếng bị bắt gặp đi xin ăn trên phố?
- Nữ ca sĩ thừa nhận học tới lớp 3 đã sang Mỹ, đành học tiếng Việt từ đồng nghiệp
Vua Minh Mạng hay Minh Mệnh là con thứ tư của vua Gia Long và là vị vua thứ hai của triều Nguyễn trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Ông trị vì từ năm 1820 – 1840.
Bạn đang xem: Vị vua nào đông con, nhiều cháu, lắm vợ nhất sử Việt?
Trong sách Kể chuyện các vị vua triều Nguyễn do tác giả Nguyễn Viết Kế biên soạn có viết rằng khi vua đang nghỉ ngơi, vua có 5 người vợ hầu hạ. “Một bà bôi trầu, một bà quạt, một bà xoa bóp, một bà ru ngủ, một bà phụ việc vặt. Mỗi bà được một canh.”
Xem thêm : Ai cũng nên biết phòng khi cần đến
Đồng thời, theo các ghi chép rải rác còn sót lại trong chính Đại Nam Thúc Lục hay Minh Mệnh thì vua Minh Mạng đã có ý thức giữ gìn sức khỏe của mình. Ngoài việc quan tâm đến chính trị, nhà vua thường xuyên đi bộ, coi đó là “cách để cầu mong được sống lâu hơn”, đồng thời rất coi trọng việc rèn luyện thể chất vì “người dân phải tập thể dục và cố gắng nhiều hơn để ngày càng khỏe mạnh hơn”. ”.
Vua Minh Mạng (1791 – 1841) khi còn nhỏ được đặt tên là Nguyễn Phúc Đảm và Nguyễn Phúc Kiều. Ông là con trai thứ hai của vua Gia Long (Nguyễn Anh). Sách “Cửu chúa, mười ba vị vua triều Nguyễn” viết rằng khi còn sống, vua Gia Long có ý định truyền ngôi cho con trai cả là Hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh. Nhưng hoàng tử Cảnh không may qua đời sớm nên Phúc Đàm được chọn thay thế. Sau khi vua Gia Long băng hà, tháng 12 năm 1820, Nguyễn Phúc Đảm lên ngôi, lấy hiệu là Minh Mạng. Ông trị vì triều Nguyễn trong 21 năm (1820 – 1841). Trong thời gian đó, Minh Mạng đã xây dựng được đất nước hùng mạnh và đạt được nhiều thành tựu trên nhiều lĩnh vực.
Dưới thời vua Minh Mạng, lãnh thổ đất nước được mở rộng nhiều nhất. Năm 1838, ông đổi tên nước từ Việt Nam thành Đại Nam, nghĩa là đất nước phương Nam rộng lớn. Quốc hiệu Đại Nam tồn tại đến năm 1945, tổng cộng là 107 năm. Theo sách “Đại Nam Thực Lục Chính Biên Đế II”, tập 190, vua Minh Mạng giải thích việc đặt tên nước là Đại Nam như sau: “Bây giờ triều đại này bao gồm toàn bộ miền Nam, lãnh thổ ngày càng rộng, một dải từ Đông đến Nam Hải, quanh biển Tây ai cũng có tóc có răng thuộc về bản đồ, bờ biển rừng sâu khắp nơi nối theo, trước gọi là Việt Nam, bây giờ gọi là Đại Nam, càng thêm ý nghĩa. .. Từ nay quốc hiệu phải gọi là Đại Nam, mọi giấy tờ đều phải tuân theo đó, dù có nói ngay Đại Việt vẫn đúng, đừng nói chữ Đại Việt. lịch lịch, không nhất thiết phải thay đổi mọi thứ… Năm Minh Mạng thứ 20, người ta bắt đầu đổi tên thành Đại Nam để tên gọi chính xác được khắp nơi gần xa biết đến.
Là một vị vua nổi tiếng và nghiêm khắc vào thời của mình, vua Minh Mạng từng trừng trị nghiêm khắc nhiều quan lại và họ hàng tham nhũng. Trong đó, nổi tiếng nhất là vụ nhà vua phê chuẩn án tử hình cho bố vợ Huỳnh Công Lý. Theo sử sách, Huỳnh Công Lý vốn là công chức thời Gia Long, sau được bổ nhiệm làm Phó Thống đốc Gia Định, nhưng trong thời gian Toàn quyền Lê Văn Duyệt ra Huế (1816 – 1820), Huỳnh Công Lý đã lợi dụng Vị trí của ông. Quan chức và cấp trên đi vắng, nhân cơ hội cướp bóc của cải lên tới 30.000 phrăng của dân và binh. Sự việc bị bại lộ, Huỳnh Công Lý bị xử tử.
Nhiều tài liệu lịch sử cho biết vua Minh Mạng có nhiều thê thiếp nên phải thả một số. Theo sách “Minh Mạng chính” thì vào mùa xuân năm Minh Mạng thứ 6, tháng giêng, kinh đô ít mưa. Vua sợ hạn hán, cho rằng trong thâm cung có nhiều âm khí ứ đọng nên đã giải tỏa một phần. hàng trăm người với hy vọng xóa bỏ thiên tai. Theo sách “Gia phả Nguyễn Phúc”, vua Minh Mạng có tổng cộng 43 người vợ được ghi chép rõ ràng về nguồn gốc. Bà Hồ Thị Hoa (còn gọi là Hoàng hậu Tạ Thiện Nhân, người vợ được nhà vua yêu quý nhất). Bà sinh ra Hoàng tử Đổng (sau này gọi là Miên Tông theo hoàng thất, sau này là vua Thiệu Trị) và mất chỉ 13 ngày sau đó (1807).
Sinh nhiều con, việc chọn người kế vị không phải là điều dễ dàng đối với vua Minh Mạng. Năm 1841, khi ông lâm bệnh nặng và biết mình không thể qua khỏi, nhà vua triệu thừa tướng Trương Đăng Quế đến giao cho “Hoàng tử Trương Khánh Công (Nguyễn Phúc Miên Tông) nhận lại chức vụ lãnh đạo, lấy lại chức vụ của ông”. Đức hạnh, đến tuổi trưởng thành nên nối ngôi. Ngươi nên hết lòng giúp đỡ hắn. Nếu có gì không ổn, ngươi nên dùng lời của ta để khiển trách. Ngươi nhìn thấy mặt ta, ngươi nên ghi nhớ.” Nhà vua băng hà ngày 20 tháng 1 năm 1841, thọ 50 tuổi. Theo di chúc của nhà vua, triều đình đưa con trưởng là Nguyễn Phúc Miên Tông lên ngôi, hiệu là Thiệu Trị vua.
Theo Đại Nam Thục Lục, hoàng tử Nguyễn Phúc Miên Phủ tuy được dạy dỗ kỹ lưỡng nhưng lại có tính cách phóng khoáng, chỉ thích chơi bời, hưởng lạc, không chịu học hành, ỷ lại quyền lực để làm những việc liều lĩnh. Tháng 11 năm Ất Mùi (1835), Miên Phủ cùng các thuộc hạ Hoàng Văn Vân, Bùi Văn Nghị, Bùi Văn Quế tổ chức đua ngựa ngoài hoàng thành, gây náo loạn đường phố. Một bà già không thể tránh kịp thời. bị ngựa của Hoàng Văn Vân đè chết. Biết tin, vua Minh Mạng ra lệnh lột mũ Miên Phủ, cắt lương hàng năm, nhốt trong nhà để sửa lỗi, không được ra ngoài một bước, không được xếp hàng thái tử. , chỉ gọi là Phủ (Miên là tên đệm của các hoàng tử con nhà Minh Mạng), phải bồi thường cho nạn nhân 200 lạng bạc. Thuộc hạ của Miên Phủ có tội bị xử phạt với nhiều mức độ khác nhau. Nặng nhất là Hoàng Văn Vân bị chặt đầu, hai anh em Bùi Văn Nghi, Bùi Văn Quế bị đày đi nơi xa, khi đến nơi thì bị đánh 100 roi.
Nguồn: https://gocnhineva.com
Danh mục: Tin Tức
Trả lời